Thứ Hai, 17 tháng 5, 2010

Bánh Ít Lá Gai

"Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi"

Câu ca dao từ lâu đã trở nên quen thuộc của người dân Bình Định. Quen thuộc không phải ở nội dung tâm sự của người con gái muốn về làm dâu xứ "nẫu" mà quen thuộc bởi chiếc bánh ít lá gai - một đặc sản của xứ dừa Bình Định.

Không chỉ đặc trưng từ hương vị ngọt bùi thơm dẻo kết tinh từ lao động và sáng tạo của người nông dân; không chỉ đặc trưng từ hình dáng tựa những ngôi tháp Chàm cổ kính rêu phong, từ sắc màu đen lục của lá gai và nếp dẻo mà còn đặc trưng bởi cái tên gọi mang đầy chất huyền thoại.

Đã có nhiều cách lý giải cho tên gọi bánh ít.

Theo sự tích xưa, sau khi chàng Lang Liêu thắng cuộc trong hội thi làm các món ăn để cúng trời đất, tổ tiên trong ngày tết đầu năm mới với hai thứ bánh ngon lành và đầy ý nghĩa là bánh chưng và bánh dày, một nàng con gái út của vua thường được mọi người gọi trìu mến là nàng Út ít, vốn rất giỏi giang, khéo léo trong công việc bếp núc, đã nhân dịp đó trổ tài, sáng tạo thêm ra những món bánh mới. Nàng Út muốn có một thứ bánh mới vừa mang hương vị bánh dày, vừa mang hương vị bánh chưng của anh mình. Nàng liền lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng. Thứ bánh mới này quả đã đạt được yêu cầu tuy hai mà một của nàng Út.

Có thứ bánh mới, nàng Út lại suy nghĩ rồi quyết định phỏng theo hình dáng của bánh dày và bánh chưng để làm thành hai dáng bánh khác nhau, một thứ dáng tròn không gói lá, giống hệt như bánh dày, một thứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống hệt như bánh chưng để đạt được ý nghĩa "tuy hai mà một". Nhưng cả hai thứ bánh đó đều làm nho nhỏ xinh xinh để tỏ ý khiêm nhường với thứ bậc út ít của mình trước các anh chị.

Sau hội thi, ngoài bánh dày, bánh chưng được coi như những thứ bánh thiêng liêng ra, những cặp bánh mang ý nghĩa "tuy một mà hai, tuy hai mà một" của nàng Út cũng được mọi người khen ngợi không ngớt. Sau này, những thứ bánh ấy được lưu truyền trong dân gian, mọi người làm theo và cứ gọi bánh này là bánh Út Ít để phân biệt với bánh chàng Lang Liêu, tức là bánh dày và bánh chưng.

Trải qua nhiều thời đại, bánh nàng Út Ít đã được cải tiến trở nên nhiều hình vẻ hơn và tên bánh được gọi vắn tắt là bánh út ít, rồi thành bánh ít như ngày nay.

Cũng có người giải thích rằng loại bánh này nhiều hình nhiều vẻ. Thứ gói lá, thứ để trần, nặn cao, nặn dẹt, thứ trắng, xanh, đen, thứ nhân dừa, nhân đậu... nên khi làm bánh, dù là để ăn hay để bán, người ta cũng thường làm mỗi thứ một ít cho có thứ nọ, thứ kia, đủ vẻ, đủ hình, do đó mà thành bánh ít. Câu ca dao Bánh thật nhiều, sao kêu bánh ít / Trầu có đầy sao gọi trầu không? cũng bắt nguồn từ sự tích như vậy.

Đó là cách lý giải của người Việt xưa. Còn người Bình Định thì lại lý giải bằng cách liên hệ giữa hình dáng bánh ít với tháp Chàm ở Bình Định. Hầu hết các tháp Chàm ở Bình Định đều đứng trên đồi cao, tạo một đỉnh nhọn ở giữa như chiếc bánh ít. Và thực tế, tại Bình Định cũng có hẳn một ngôi tháp mang tên Bánh Ít đi vào ca dao:

"Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di
Vật vô tri cũng thế huống chi tui với bà"

Cách lý giải thứ hai là dựa vào tục lễ hồi dâu của các cặp vợ chồng mới cưới. Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo. Món quà tuy "ít", nhưng là "của ít lòng nhiều", ở đó nó còn có cả những giọt mồ hôi, sự nhẫn nại kiên trì, đôi bàn tay khéo léo, và đặc biệt là tấm lòng hiếu để của cô gái xa cha mẹ về làm dâu xứ người.

Có lẽ chính vì thế mà nghề làm bánh ít ngày nay vẫn được lưu truyền khá nhiều ở nông thôn Bình Định. Nó không chỉ đơn thuần mang lại những khoản thu nhập nho nhỏ cho người dân mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc gìn giữ giá trị truyền thống, giá trị giáo dục lòng yêu thương, tôn kính cha mẹ và rèn luyện tính kiên trì khéo léo cho con cái.

Thực vậy, để làm được chiếc bánh ít, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, dụng khá nhiều công sức. Đầu tiên là phải chọn nếp để xay (nếp dùng làm bánh ít phải là nếp mới, thơm, độ dẻo vừa) rồi vo kỹ, ngâm với nước vài giờ, sau đó mới xay nhuyễn. Nếu xay bằng cối xay thủ công phải đăng cho ráo nước để được một khối bột dẻo.

Để có màu xanh đen và hương vị thơm chát cho bánh, người ta hái lá gai non (cây lá gai thường mọc sẵn ở các hàng rào quanh nhà), rửa sạch rồi luộc chín, vắt khô, sau đó trộn với bột dẻo đem đi giã. Đây là công đoạn dụng khá nhiều sức. Vì nếu giã chưa nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo cảm giác không ngon.

Tiếp đến là công đoạn làm nhân bánh. Nhân bánh ít lá gai bao gồm đậu xanh, đường, dừa, có chút quế và bột va-ni cho thơm. Đậu xanh đem xay bửa đôi rồi ngâm và đãi cho sạch vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa được bào ra thành sợi, bỏ vào chảo gang xào chung với đường một lúc cho đến độ chín tới mới trộn tiếp đậu xanh. Xào nhân trên bếp lửa liu riu cho đến khi nào đường chín tới, nhân có màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa.

Làm bánh ít không khó, nhưng đòi hỏi phải khéo léo. Sau khi đã xào nhân xong, ngắt một miếng bột nếp, tẻ thành bánh mỏng hình tròn trên lòng bàn tay, rồi vốc một nhúm nhân bỏ vào giữa, túm bốn bên lại cho khít mối, sau đó vo tròn trong lòng bàn tay. Lúc này bột nếp đã bọc toàn bộ nhân bánh thành một khối tròn. Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút dầu phộng, xoa đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mới gói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyến rũ, huyền bí.

Ngoài bánh ít lá gai, có một số nơi làm bánh ít thường bằng bột nếp, màu trắng, có nhân đậu xanh, nhân dừa đường hoặc tôm, thịt; có loại gói lá chuối, có loại để trần; cũng có loại làm bằng bột khoai mì, bột củ dong... và đều làm chín bằng phương pháp hấp như trên.

Ngày nay, dù có nhiều loại bánh hiện đại, ngon rẻ và hấp dẫn hơn nhiều, song người Bình Định vẫn không bỏ nghề làm bánh ít lá gai. Nếu không làm để bán thì cũng làm để cúng giỗ và làm quà cho lễ hồi dâu. Họ truyền nghề này cho thế hệ con cái, nhất là con gái như một thứ bảo bối gia truyền.

Ở hầu hết các làng quê Bình Định, đám giỗ nào cũng có bánh ít lá gai. Bánh cúng xong được dọn lên mâm cỗ làm món quà tráng miệng và làm quà bánh cho người ở nhà. Đây cũng là nét khác biệt trong văn hóa ẩm thực và văn hóa ứng xử của người Bình Định.

2 nhận xét:

  1. Nhung ngay gio la tat bac lam banh it,toi thich banh it lam nhan dau xanh nhat.ngoai ra gio que toi (Hoai An)con co mot mon an dac trung la dua chuoi.Dua chuoi duoc lam tu chuoi hot,ai da mot lan thuong thuc thi khong the quen.Nguoi Quang Nam-Da Nang co nhieumon chua ngon,nhung qua thuc mon dua chuoi trong ngay dam cuoi hay gio o que toi co huong vi dac biet va ngon hon ca.Qua trinh lam rat ky cong.Rat tiec dua chuoi thoi han su dung qua ngan,neu khong neu dua ra thi truong ban o khap noi,toi tin rang mon an nay se rat duoc ua chuong.moi lan gio ma an khong het,lay dua chuoi con lai xao chung voi thit thua,an voi banh trang rau song,chep..chep..nhac da thay them...

    Trả lờiXóa
  2. Dear Sang,
    Cảm ơn những nhận xét rất thật của bạn. Đó cũng là niềm hứng khởi cho tôi để tiếp tục sưu tầm và post bai. Tôi cũng có người cô ruột ở Hoài Ân, ra đó chơi nhiều nhưng chưa biết món dưa chuối bạn có thể cho biết công thức hay hình ảnh chi tiết của món này không? Hiện tôi đã dời địa diểm qua ngôi nhà mới là www.dacsandatvo.com bạn có thể liên hệ với tôi tại http://www.dacsandatvo.com/lien-he/ rất mong nhận được hồi âm của bạn

    Trả lờiXóa